Cơ duyên Hán_Nham_Trùng_Viễn

Sư sinh năm 1876 trong một gia đình thuộc tầng lớp thượng lưu và được giáo dục theo truyền thống của Nho Giáo. Một hôm, trong khi đang đọc cuốn sách Lịch sử tại trường học và thấy trong đó nói rằng từ thời quá khứ xa xưa đã có một vị Thiên Chúa ở trên Thiên Đàng. Đọc tới chỗ này, sư thắc mắc và hỏi các giáo viên rằng nếu Thiên Chúa có thật và sống vào thời điểm đó, thì ai là người có trước ông ta. Giáo viên rất ngạc nhiên khi nghe câu hỏi táo bạo của một cậu bé 8 tuổi và trả lời rằng họ đoán rằng trước cả Thiên Chúa là một vị vua tên Pangu người tạo ra thế giới và từng tồn tại trong quá khứ xa xưa, trước cả khi vũ trụ sinh ra. Tuy nhiên, câu trả lời của họ không thỏa mãn được thắc mắc của sư, sư hỏi vậy ai sẽ là người có trước vị Pangu kia, và đến đây giáo viên không trả lời được nữa. Sau đó sư chuyên tâm học kinh sách Nho Giáo và nỗ lực cố gắng tìm câu trả lời cho thắc mắc kia nhưng vẫn không có kết quả.

Thiền sư Triều Tiên

Đến năm 21 tuổi, sư đến núi Kim CươngBắc Triều Tiên (ngày nay) và xuất gia tu tập tại chùa Trường An Tự(zh: 長安寺) với Thiền sư Haenglŭm Kŭmwŏl. Và sau tiếp tục tu tập tại Thần Khê Tự (zh: 神溪寺). Sau vài năm tu hành, sư có một kinh nghiệm giác ngộ đầu tiên khi đọc tới một đoạn văn trong quyển Tu Tâm Quyết (kr: Susimgyeol) của Thiền sư Trí Nột:

Chẳng biết tự tâm mình là chân Phật, chẳng biết tự tánh mình là chân pháp. Muồn cầu pháp mà cầu các thánh ở tha phương. Muồn cầu Phật mà chẳng quán tự tâm. Nếu nói ngoài tâm có Phật, ngoài tánh có pháp, chấp cứng tình nầy, muồn cầu Phật đạo, dù trải qua số kiếp như vi trần, đốt thân chặt tay đập xương ra tủy, chích máu viết kinh, ngồi mãi chẳng nằm, ngày ăn một bữa, cho đến đọc hết một đại tạng kinh, tu muôn ngàn khổ hạnh, chẳng khác nào nấu cát làm cơm, chỉ luống tự nhọc.

Sau đó, sư bắt đầu hành cước đi khắp nơi tìm minh sư để có thể dẫn dắt sư đạt đến sự giác ngộ. Vào lúc đó, Thiền sư Cảnh Hư đang dẫn chúng tu tập tại chùa Cheongamsa, biết được điều này, sư đã đến và xin được tu tập tại đây. Sư tuân theo các lời dạy về tu tập của Thiền sư Cảnh Hư và dành hết tâm trí, sức lực cho việc thực hành Thiền thoại đầu. Một hôm, trong buổi thuyết pháp, Thiền sư Cảnh Hư trích một câu trong kinh Kim Cang là nếu thấy tướng thực chẳng phải tướng thì sẽ thấy được Như Lai. Qua câu kinh này, sư đại ngộ, bao nhiêu nghi ngờ từ lúc còn nhỏ cho tới nay đều sáng tỏ. Sư có làm bài kệ để nói về sự đại ngộ này:

Cước hạ thanh thiên đầu thượng loan.

Bản vô nội ngoại diệc trung gian.

Bả giả năng hành, manh giả kiến.

Bắc sơn vô ngữ đối Nam sơn.

Dịch

Chân đạp trời xanh, đầu đội đất

Vốn không nội ngoại, chẳng trung gian

Kẻ què siêng bước, người mù thấy

Núi Bắc không lời đáp núi Nam.

Từ năm 1889-1903, sư đã trải qua nhiều khóa Thiền thất tại nhiều ngôi thiền đường khác nhau trong khu vực. Sư tham gia kỳ Thiền Thất mùa hè tại Hải Ấn Tự (Haeinsa) dưới sự chủ trì của Thiền sư Cảnh Hư vào năm 1903.Năm 1904, ở tuổi 29, sư làm người lãnh đạo dẫn chúng tu tập tại Thiền Đường tổ đình Thông Độ Tự(kr: Tongdosa). Tuy nhiên, sau khi đọc tới một đoạn kinh nọ, sư không thể hiểu hết được ý nghĩa thực sự của nó. Tới ngày hôm sau, sư đóng của Thiền Đường và lập Am ẩn tu ở quận Maeng-san ở Pyŏngan-do (Bắc Triều Tiên ngày nay) và quyết tâm đạt sự giác ngộ hoàn toàn. Sư đã chuyên tâm tu tập Thiền ở đó khoảng 8 năm và tới một hôm đang đốt lửa, khi thấy dòng lửa đang bừng lên, sư đại ngộ triệt để. Sư có làm bài kệ tỏ ngộ như sau:

Trữ hỏa trù trung nhãn hốt minh.

Tùng tư cổ lộ tùy duyên thanh.

Nhược nhơn vấn ngã Tây lai ý.

Nham hạ tuyền minh bất thấp thanh

Dịch:

Trong bếp lửa hừng chợt nhận ra

Đường xưa theo đó tùy duyên qua

Nếu ai hỏi lão “ Tây lai ý ”?

Tiếng suối dưới khe chẳng ướt va.